Thứ Ba, 7 tháng 8, 2012

Không sợ áp lực đảo chiều từ VND sang USD

Tính từ tháng 6 đến nay, giá USD ngân hàng (NH) có vài lần được niêm yết kịch trần lên mức 21.036 VND/USD.


                         <<  Ngân hàng habubank phát triển mạnh  >>
 

Song song đó, lãi suất USD tại một số NH cũng được nâng lên hơn 4%/năm. Mặc dù giá USD trong NH liên tục biến động thì tỉ giá USD bình quân liên NH được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) giữ nguyên từ đầu năm.


Tăng giá nhẹ là bình thường
Câu hỏi mà nhiều người quan tâm lúc này là tỉ giá từ nay đến cuối năm như thế nào? Thống đốc NHNN từng cho biết có thể giữ ổn định thị trường ngoại hối với mức biến động VND 2%-3%.


Theo các chuyên gia, chính vì suy nghĩ giá USD sắp tới sẽ tăng nên đã xảy ra tình trạng các doanh nghiệp có nhu cầu thanh toán hàng nhập khẩu tranh thủ trích trữ ngoại tệ. Ngược lại, các doanh nghiệp có nguồn ngoại tệ từ hoạt động xuất khẩu có xu hướng chờ đợi hơn là bán ngoại tệ ngay. Điều này làm cho cầu USD thời gian qua tăng. Bởi thế các NH đã nâng giá USD lên cao.


Sự biến động của USD thời gian qua theo chuyên gia tài chính NH Nguyễn Trí Hiếu, thật ra cũng là điều bình thường, không có gì đột biến. USD tăng do áp lực trả tiền khi một số DN đến lúc phải đáo hạn. Mặt khác, vài tuần qua tình hình nhập khẩu cũng tăng lên đôi chút nên giá USD tăng theo.


Ông Đào Hồng Châu, Phó Tổng Giám đốc NH Eximbank, phân tích: Thường vào cuối năm DN có nhu cầu nhập khẩu hàng hóa, thanh toán… cao nên USD sẽ tăng lên. Tuy nhiên, bối cảnh năm nay lại khác, Chính phủ hạn chế nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu cho nên không bị áp lực như mọi năm.


Thận trọng khi điều chỉnh
Ông Nguyễn Hoàng Minh, Phó Giám đốc NHNN, cũng cho rằng việc điều chỉnh giá USD trong NH là bình thường, thậm chí giá USD tăng còn kích thích xuất khẩu.


Trong báo cáo Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2012-2013, Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia đã nhận định: Tỉ giá VND/USD đang được đánh giá thấp hơn so với thực tế, giá trị thật của USD lúc này đáng ra phải là 22.000 USD. Bên cạnh đó, USD trên thế giới liên tục tăng mạnh hơn so với các đồng ngoại tệ khác, làm cho hàng Việt Nam xuất khẩu đắt hơn các mặt hàng tại quốc gia nhập khẩu. Vì thế, nếu muốn kích thích xuất khẩu từ bây giờ đến cuối năm phải điều chỉnh tỉ giá.


Theo TS Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia tài chính NH, thời gian qua lãi suất huy động USD thấp hơn rất nhiều so với VND cho nên người dân có xu hướng bán USD lấy VND gửi tiết kiệm. Không chỉ người dân, ngay cả NH cũng thích VND hơn. Nếu điều chỉnh tỉ giá bây giờ không khéo dẫn đến tình trạng đảo chiều. “Vì thế NHNN chắc chắn sẽ rất thận trọng trong việc điều chỉnh lãi suất” - ông Nghĩa nhận định.


Vậy điều chỉnh bao nhiêu là hợp lý? “Tôi cho rằng USD có thể điều chỉnh khoảng dưới 3% từ nay đến cuối năm. Tuy nhiên, lãi suất tiền gửi chỉ nên giảm thêm 1% nữa thôi chứ nếu giảm khoảng 2% sẽ có biến động” - chuyên gia Nguyễn Trí Hiếu nói thêm.


Một chuyên gia tài chính khác cho rằng một điều rất dễ nhận thấy là từ đầu năm đến nay tình hình nhập khẩu của Việt Nam không như mọi năm, do đó sức cầu USD tương đối thấp. Bên cạnh đó, NH còn mua ròng USD từ người dân nên chắc chắn cán cân thanh toán của NH không bị thâm hụt. “Đó là chưa kể những động thái hỗ trợ từ phía NHNN chắc chắn tỉ giá USD từ nay đến cuối năm sẽ nằm trong tầm kiểm soát, áp lực về cầu USD”.


Sự chênh lệch lãi suất nội tệ và ngoại tệ theo tôi tương đối cân bằng. Hiện nay lãi suất tiền gửi là 9%, lãi suất ngoại tệ là 2%. Trong khi đó lạm phát trong năm nay sẽ vào khoảng 6%, cộng với 2% rủi ro hối đoái là bằng 8%. Như vậy, 9% lãi suất tiền gửi trừ đi 8% này còn 1%. Dư địa để NHNN tiếp tục hạ lãi suất tiền gửi chỉ còn khoảng 1%. Nhưng 1% là con số mong manh, nếu NHNN tiếp tục giảm lãi suất VND nữa rất có thể xảy ra tình trạng đảo chiều từ nội tệ sang ngoại tệ.

Thứ Năm, 2 tháng 8, 2012

NamA Bank sơ kết hoạt động 6 tháng đầu năm

Tuần qua, Ngân hàng Nam Á (NamA Bank) tổ chức Lễ sơ kết hoạt động 6 tháng đầu năm và chương trình hành động 6 tháng cuối năm 2012.


                         <<  Ngân hàng Habubank tự tin xóa nợ  >>
 

6 tháng đầu năm 2012, NamA Bank đã bám sát tình hình thực tế, đem về kết quả kinh doanh có phần khả quan. Theo đó, tổng tài sản đạt 17.612 tỷ đồng, tổng huy động đạt 14.163 tỷ đồng (trong đó huy động từ dân cư đạt 9.536 tỷ đồng) tăng 12,06% so với cùng kỳ năm 2011, dư nợ cho vay đạt 5.018 tỷ đồng tăng 5,44%.
Cũng trong 6 tháng đầu năm, NamA Bank không ngừng triển khai hàng loạt các sản phẩm, chương trình ưu đãi nhằm tối đa hóa lợi ích cho khách hàng như: Tiết kiệm kỳ hạn linh hoạt, tiết kiệm trả lãi ngay, 700 tỷ cho vay tiêu dùng cá nhân, các chương trình tri ân khách hàng “Gửi tiền triệu - Trúng nhà Tỷ”, “Chuyển tiền - Trúng IPAD”… NamA Bank cũng vinh dự nhận liên tiếp nhiều danh hiệu và giải thưởng uy tín: danh hiệu “Tập thể lao động xuất sắc năm 2011” do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khen tặng, giải thưởng  “Nhãn hiệu cạnh tranh Việt Nam” và “Nhãn hiệu nổi tiếng Việt Nam” năm 2012 do Hội sở hữu trí tuệ Việt Nam (VIPA) trao tặng. Điều này khẳng định thương hiệu NamA Bank ngày càng thành công trong việc tạo dựng niềm tin với khách hàng, đối tác và cộng đồng.
Trong thời gian tới, NamA Bank sẽ tiếp tục tập trung phát triển các sản phẩm dịch vụ dành riêng cho khách hàng cá nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ kinh doanh theo đúng định hướng trở thành ngân hàng bán lẻ hiện đại, có chất lượng dịch vụ tốt. Toàn thể Cán bộ nhân viên quyết tâm thực hiện chỉ tiêu kinh doanh đề ra.

Thứ Ba, 31 tháng 7, 2012

'Loạn' mô hình tổ chức các ngân hàng

 
Tái cấu trúc ngân hàng là một câu chuyện lớn và thực hiện trong quá trình kéo dài. Trong bài viết này, chỉ xin đề cập tới một vấn đề nhỏ là hệ thống tổ chức kinh doanh của các ngân hàng.

Bài liên quan : <<  Ngân hàng habubank vượt qua khó khăn  >>
                         <<  Ngân hàng habubank phát triển mạnh  >>
 

Đây được xem là một vấn đề tưởng như là hình thức nhưng liên quan sâu xa đến cơ cấu hoạt động, quyết định hiệu quả kinh doanh của mỗi ngân hàng

Chi nhánh, phòng giao dịch hay quỹ tiết kiệm?

Đặc thù lớn nhất của các ngân hàng: sự trải rộng của của các điểm giao dịch. Đây là đặc tính mà không có một doanh nghiệp (DN) nào khác có thể đạt phổ rộng về sự hiện diện về mặt điểm giao dịch như ngân hàng (NH). Và nó cũng kéo theo sự lập lờ về tổ chức của các ngân hàng

Thông thường, hệ thống của một ngân hàng thường bao gồm các cấp: hội sở chính;  Sở Giao dịch và các chi nhánh; các phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm trực thuộc Sở Giao dịch,các chi nhánh.

Luật Các tổ chức tín dụng 2010 mới chỉ đề cập rằng các ngân hàng thương mại được phép thành lập các chi nhánh, văn phòng đại diện, các đơn vị sự nghiệp ở trong nước, chi nhánh, văn phòng đại diện, hay các hình thức hiện diện khác ở nước ngoài.

Ngân hàng Nhà nước cũng đã cố cho ra được thông tư quy định về mạng lưới hoạt động của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, đến nay, văn bản chính thức vẫn chưa được ban hành dù đã 2 lần xin ý kiến. Điều này chứng tỏ, việc quy định các đơn vị kinh doanh của ngân hàng thương mại không hề dễ dàng.

Điều này sẽ dẫn đến tình trạng lách luật và "lờ vờ" về mặt hoạt động. Hiện nay, nhiều ngân hàng thương mại đang lập lờ nhiều nhất là giữa mô hình "Quỹ tiết kiệm" và "Phòng Giao dịch". Theo quy định, quỹ tiết kiệm không được thực hiện nghiệp vụ cho vay. Tuy nhiên, trên thực tế, khi nhìn cơ cấu tổ chức của phần lớn quỹ tiết kiệm thì đều thấy xuất hiện chức danh: chuyên viên quan hệ khách hàng. Đây bản chất là một dạng cán bộ tín dụng. Chuyên viên này thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ từ tư vấn, lập hồ sơ, thẩm định hồ sơ lần đầu. Cái khác duy nhất là người quản lý ký sẽ lãnh đạo chi nhánh mà quỹ tiết kiệm trực thuộc. Điều này sẽ nghiễm nhiên coi hoạt động tín dụng là của chi nhánh

Ngoài ra, các nghiệp vụ khác, quỹ tiết kiệm hoạt động hoàn toàn giống với các phòng giao dịch: nhận tiền gửi, chiết khấu giấy tờ có giá do tổ chức mình phát hành, thanh toán, phát hành thẻ... Trong hệ thống các chỉ tiêu doanh số được giao của một chuyên viên quan hệ khách hàng ở quỹ tiết kiệm, ở phòng giao dịch, ở chi nhánh hoàn toàn giống nhau: huy động phải đạt bao nhiêu tỷ, phải phát hành được bao nhiêu thẻ, phải giải ngân được bao nhiêu tiền... Sự khác nhau chỉ về mặt khối lượng. Điều này chứng tỏ, trên thực tế, các hoạt động nghiệp vụ của một quỹ tiết kiệm không hề kém một phòng giao dịch.

Bản thân nếu đặt ra câu hỏi "Sự khác biệt giữa quý tiết kiệm và phòng giao dịch" thì các nhân viên ngân hàng cũng khó mà trả lời được, bởi đơn giản, nghiệp vụ giống hệt nhau.

Câu hỏi sẽ đặt ra, Ngân hàng Nhà nước siết chặt điều kiện mở phòng giao dịch, nhưng lại không quá siết chặt việc mở quỹ tiết kiệm thì bản thân việc siết này không còn có ý nghĩa và đẩy các ngân hàng vào thế lách luật, và đã từng có phong trào mở quỹ tiết kiệm của các ngân hàng.

Một dạng tổ chức nữa mà chúng tôi quan sát được là dạng "Phòng giao dịch cấp chi nhánh". Ở đây, các phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm thường chỉ dao động khoảng 4 đến 10 người. Chúng tôi có theo dõi và thấy một đặc trưng điển hình của phòng giao dịch: Giám đốc Phòng giao dịch: 1 người; 1 người là Phó Giám đốc hoặc Kiểm soát viên thường phụ trách công tác kế toán của chi nhánh, phê duyệt các giao dịch của giao dịch viên hàng ngày; 1-2 chuyên viên quan hệ khách hàng; 1-2 giao dịch viên; ngoài ra tùy ngân hàng có thể có nhân viên quỹ, chuyên viên hỗ trợ tín dụng... Đặc tính cơ bản: PGD không có nhân viên lái xe, không được cấp xe ôtô riêng.

Tuy nhiên, khi đứng trước cửa một phòng giao dịch của ngân hàng S, chúng tôi thấy được được có đầy đủ các phòng ban như một cấp chi nhánh: Phòng DVKH để tiến hành giao dịch hàng ngày, phòng khách hàng cá nhân, phòng khách hàng doanh nghiệp, phòng kế toán, rồi cả bộ phận hành chính, chuyên viên nhân sự, lái xe, có được hội sở cấp xe riêng... rất đầy đủ. Khi báo cáo số lượng nhân sự, các phòng giao dịch này sẽ có số lượng lớn hơn các phòng giao dịch khác. Từ đấy, chúng ta có quyền nghi ngờ về việc ngân hàng "lách" luật, tổ chức chi nhánh, nhưng chỉ đăng ký là Phòng Giao dịch.

Ngoài ra, khái niệm Sở Giao dịch cũng cần phải được luật hóa, được quy định chính thức phạm vi hoạt động để làm rõ chức năng của đơn vị này. Cụm từ "Sở Giao dịch" mới chỉ xuất hiện trong Nghị định số 59/2009/NĐ-CP của Chính Phủ quy định về tổ chức của ngân hàng thương mại.

Trên thực tế, Sở Giao dịch có thể được gọi dưới các tên như Trung tâm Kinh doanh Hội sở, Trung tâm Giao dịch Hội Sở... có ngân hàng chỉ có 1 Sở Giao dịch, nhưng nhiều ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng nhà nước lại có cả Sở Giao dịch 2, Sở Giao dịch 3...  Và cũng trên thực tế, Sở Giao dịch bản chất cũng chỉ là một dạng chi nhánh.

Số lượng bao nhiêu thì đủ?

Các ngân hàng đang đua nhau mở thêm các điểm giao dịch. Và hiện tại, với các điểm giao dịch, máy ATM thì có thể nói, ngân hàng len lỏi đến cấp phố, hầu như con phố nào cũng có ít nhất một ngân hàng, to thì chi nhánh, bé thì quỹ tiết kiệm.

Ở đây, vô địch về việc mở điểm giao dịch phải kể đến các ngân hàng nhà nước (Agribank) và các ngân hàng do nhà nước chiếm cổ phần chi phối. Đơn cử, trên địa bàn quận Thanh Xuân, Agribank  có gần 20 điểm giao dịch (bao gồm cả Chi nhánh, Phòng Giao dịch), trong đó, có những tuyến đường như Nguyễn Trãi, Hoàng Văn Thái, Nguyễn Quý Đức có từ 2 - 3 phòng giao dịch. Điều này chắc chắn không một ngân hàng thương mại cổ phần nào có được.

Các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước chiếm cổ phần chi phối khác như Vietinbank, BIDV đều có mức độ dày đặc các điểm giao dịch cũng chỉ kém tý chút như chi nhánh Vietinbank Chương Dương có tận 8 Phòng Giao dịch trên địa bàn quận Long Biên và cũng chỉ tập trung chủ yếu ở gần gần các khu vực đường Nguyễn Văn Cừ, Ngô Gia Tự, và Ngọc Lâm.

Các ngân hàng thương mại cổ phần khác tuy không "đạt được" độ một phố có thể có 2 phòng giao dịch, nhưng sự xuất hiện cũng dày đặc không kém như Techcombank, MaritimeBank...

Ngoài ra, theo lý thuyết thông thường, mỗi chi nhánh sẽ hoạt động kinh doanh ở một địa bàn cụ thể, và có thể mở các phòng giao dịch ở xung quanh đó phục vụ hoạt động kinh doanh của mình. Ví dụ, chi nhánh Long Biên của một ngân hàng thường đặt trụ sở chi nhánh trên địa bàn quận Long Biên, và mở thêm các phòng giao dịch,quỹ tiết kiệm trên địa bàn quận này để hoạt động.

Tuy nhiên không hẳn vậy, các chi nhánh của các ngân hàng có thể có các phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm trực thuộc trên khắp thành phố. Điển hình như Chi nhánh Vietinbank Chương Dương có cả các phòng giao dịch ở tận nhiều quận trong thành phố. Và hiện tượng này không phải là hiếm và tồn tại ở nhiều ngân hàng.

Việc này đương nhiên  sẽ không gây ra rủi ro gì cho hoạt động của hệ thống, nhưng các ngân hàng cũng nên xem lại mạng lưới quy hoạch chi nhánh, phòng giao dịch của mình. Đặc biệt, đối với các ngân hàng có quá nhiều phòng giao dịch thì nên xử lý bởi các phòng giao dịch chưa chắc đã đem lại hiệu quả cao khi nó xuất hiện quá dày đặc, thậm chí, có thể dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong chính một hệ thống ngân hàng.

Thứ Năm, 26 tháng 7, 2012

Phẩu thuật nâng mũi không để lại bất kí tổn thương nào

Phẩu thuật nâng mũi

Hiện nay, trong phẫu thuật nâng mũi nói chung thì người ta sử dụng hai loại vật liệu chính đó là vật liệu sua mui han quoc lấy từ tự thân và vật liệu nhân tạo.
nang mui han quoc

1/ Vật liệu tự thân:
- Sụn vách ngăn từ mũi
- Sụn vành tai
- Sụn sườn
- Xương mào chậu
- Cân cơ thái dương
- Mỡ
Ưu điểm: là an toàn, không sợ phản ứng
Nhược điểm: Là phải cần thêm một cuộc phẫu thuật để lấy chất liệu đó từ cơ thể, sẽ để lại thêm một vết sẹo, mặt khác, miếng sụn sau khi cấy ghép cũng dễ bị teo nhỏ dần theo một cơ chế tự nhiên, làm thay đổi kết quả giải phẫu. Với miếng sụn tươi sống này việc cắt gọt chỉnh sửa hình dáng theo ý muốn cũng khó khăn hơn chất liệu nhân tạo…
2/ Vật liệu nhân tạo: Thường các chất liệu được làm phau thuat nang mui han quoc gần giống với hình dáng của sống mũi người, khi sử dụng bác sỹ thẩm mỹ còn phải chỉnh sửa sao cho phù hợp với từng trường hợp trước khi đặt vào. Chất liệu chủ yếu để làm sống mũi nhân tạo thường là silicone và các hợp chất của silicone. Có thể ở dạng rắn, dẻo hay sợi mềm như Gore-Tex. Các chất liệu này rất tiện lợi cho sử dụng, dễ chỉnh sửa, an toàn cho cơ thể và tạo hình dáng mũi tự nhiên, mềm mại.
phau thuat nang mui han quoc

Có 2 phương pháp nâng mũi phổ biến là tiểu phẫu cấy ghép sụn và sử dụng chất làm đầy Filler.
Nâng mũi không cần phẫu thuật bằng chất làm đầy Filler. Filler là một dạng acid hyaluronic có cấu tạo tương đồng với acid hyaluronic trong cơ thể có tác dụng làm tăng thể tích và nâng đỡ mô. Khi đưa một lượng filler vào vị trí mũi, các acid hyaluronic sẽ len lỏi vào khoảng trống giữa các mô để làm đầy, nâng đỡ và tạo dáng thanh mảnh cho những sống mũi thấp. Đây là giải pháp được FDA kiểm định là an toàn và cho hiệu quả tức thì (chỉ sau 2-3 ngày) và chỉ sau 15-20 phút trị liệu, bạn sẽ quay trở lại với công việc một cách bình thường.
Với giải pháp nâng mũi không phẫu thuật bằng chất làm đầy Filler sẽ mang lại cho bạn sóng mũi tự nhiên và duy trì kết quả trong thời gian 6-12 tháng rất thích hợp với những ai ngại dao kéo. Tiểu phẫu cấy ghép sụn để duy trì kết quả vĩnh viễn. Chất liệu dùng trong phẫu thuật nâng sống mũi là sụn nhân tạo của các hãng sản xuất công nghệ thẩm mỹ hàng đầu của Mỹ và Hàn Quốc với các khớp nối đươc thiết kế linh hoạt phù hợp với từng cấu trúc mũi. Công nghệ nâng mũi bọc sụn không chỉ làm cho sống mũi và đầu mũi cao, thanh hơn, mà còn làm hẹp một phần cánh mũi với những cánh mũi hơi to. Ngay sau phẫu thuật, bạn có thể thấy ngay hình dáng mũi mới của mình và sự cải thiện rõ rệt về mặt thẩm mỹ.
 Thẩm mỹ hàn quốc JW cơ sở 1
Địa chỉ: 141 - 143 Lê Thị Riêng,P.Bến Thành,Q.1,TP.HCM
Điện thoại: (08) 6683 2222
Di động: 09 6868 1111
Email: drdunghanquoc@gmail.com,drhaohanquoc@gmail.com


Thứ Ba, 17 tháng 7, 2012

Cấm bảo hiểm tiền gửi mang vốn đi gửi ngân hàng

Khác với quy định trước, luật Bảo hiểm tiền gửi vừa được VP Chủ tịch nước công bố ngày 16/7 “thắt” điều kiện, không cho phép tổ chức bảo hiểm tiền gửi mở tài khoản, gửi tiền tại ngân hàng như quy định trước đây.


                         <<  Ngân hàng Habubank tự tin xóa nợ  >>
 

Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Thanh Bình cho biết, Quốc hội đã thông qua nguyên tắc chỉ bảo hiểm tiền gửi bằng đồng Việt Nam, không bảo hiểm đối với tiền gửi là ngoại tệ, kim loại quý. Chủ thể được bảo hiểm tiền gửi cũng được điều chỉnh để khắc phục những hạn chế của quy định hiện hành. Theo đó, luật mới quy định chỉ bảo hiềm tiền gửi của người gửi tiền là cá nhân mà không bảo hiểm cho tiền gửi của hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh.
“Việc bảo hiểm tiền gửi cho cả tổ chức không phù hợp với mục tiêu bảo vệ những người gửi tiền nhỏ lẻ, thiếu thông tin. Mặt khác, tiền gửi của các tổ chức mang tính luân chuyển cao, chủ yếu nhằm mục đích thanh toán chứ không nhằm mục đích gửi tiền tiết kiệm nên giữ quy định như cũ không phù hợp với điều kiện của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” – ông Bình phân tích.
Phó Thống đốc cũng lưu ý nội dung, luật Bảo hiểm tiền gửi quy định cụ thể về hoạt động đầu tư của tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Nhằm tránh rủi ro hao tổn quỹ bảo hiểm tiền gửi, gây tác động xấu đến hiệu quả của hệ thống, luật chỉ cho phép tổ chức Bảo hiểm tiền gửi được sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để mua trái phiếu Chính phủ, tín phiếu NHNN và gửi tiền tại NHNN (Điều 31) mà không cho phép tổ chức bảo hiểm tiền gửi được mở tài khoản, gửi tiền tại tổ chức tín dụng khác như quy định trước đây.
Về nghĩa vụ chi trả bảo hiểm, luật quy định, nghĩa vụ này phát sinh kể từ thời điểm NHNN có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc chấm dứt áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà ngân hàng tham gia bảo hiểm vẫn lâm vào tình trạng phá sản. Việc xác định thời điểm trả tiền bảo hiểm thể hiện cam kết của nhà nước đối với người dân trong việc đảm bảo chi trả ngay lập tức khoản tiền bảo hiểm trong hạn mức bảo hiểm theo quy định cho người gửi tiền khi ngân hàng đổ vỡ, nhằm củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng, hạn chế hiện tượng rút tiền hàng loạt, qua đó giảm thiểu tình trạng mất khả năng thanh toán của ngân hàng, góp phần duy trì sự ổn định của cả hệ thống.
Luật Bảo hiểm tiền gửi có hiệu lực thi hành từ 1/1/2013.